Trong số những việc đạo đức tôn kính Thánh Thể có việc chầu Mình Thánh Chúa. Tại sao gọi là Chầu Mình Thánh? Tục lệ này bắt nguồn từ đâu?
Trong tiếng Hán-Việt, tiếng “chầu” có thể dùng như danh từ hay động từ. Dùng như danh từ, “chầu” ám chỉ một khoảng thời gian (một “buổi”, một “phiên”, một “hồi”), tựa như một chầu hát, một chầu xinê, và đôi khi còn là bữa ăn (thí dụ: đãi một chầu bia). Dùng như động từ, chầu được dùng cách trịnh trọng trong ngôn ngữ cung đình, để ám chỉ cuộc viếng thăm của người dưới đối với người trên (chẳng hạn như: đi chầu vua). Tôi nghĩ rằng khi nói đi “chầu Mình Thánh Chúa” thì chúng ta hiểu theo nghĩa này, tức là một cuộc viếng thăm với lòng cung kính. Tuy nhiên, nếu muốn hiểu rõ ý nghĩa hơn, chúng ta cần phải trở về với lịch sử, bắt nguồn từ tiếng Pháp, “salut du Saint Sacrement”, mà ta có thể dịch nôm na là “chào Mình Thánh Chúa”.
Tại sao lại có tục lệ “chào Mình Thánh Chúa”?
Theo một vài sử gia, nguồn gốc của tục lệ “chào Mình Thánh Chúa” hơi vòng vèo một chút. Nó bắt nguồn từ tục lệ “Chào Đức Mẹ”, rồi sau đó mới kéo dài ra tục “Chào Mình Thánh Chúa”. Dĩ nhiên, ở đây tiếng “chào” mang tính cách hơi chuyên môn, chứ không phải chỉ là chào hỏi khi gặp nhau ngoài đường. Từ thế kỷ XIII, các giờ kinh phụng vụ kết thúc với bài hát “Salve Regina” (trước đây dịch ra sang tiếng Việt là kinh “Lạy Nữ Vương Mẹ nhân lành”; còn bản dịch hiện đại của Sách Các Giờ kinh Phụng vụ là “Kính chào Đức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương”), ở giờ Kinh Tối. Trong suốt ngày, các tín hữu mắc bận công chuyện làm ăn, cho nên không thể tham dự các giờ kinh nguyện được. Một cơ hội thuận tiện để đến nhà thờ là lúc chiều tối, khi hát kinh Salve Regina, đặc biệt là từ khi các tu viện dòng Đaminh, được cất ở giữa thành phố chứ không phải trên núi non như các đan viện cổ thời. Các tu sĩ dòng Đaminh có thói quen đi rước từ cung nguyện ra thánh đường đang khi hát kinh Salve Regina, và mở cửa cho các tín hữu đến tham dự. Tập tục này bành trướng mau lẹ, đến nỗi các vua chúa (tựa như vua thánh Louis) cũng thu xếp đến nhà thờ hát kinh chào Đức Mẹ. Bài ca này bắt đầu bằng lời “Salve Regina” (tiếng Pháp là “Salut”), với nội dung không phải chỉ là một lời chào hỏi mà còn là một lời cầu khẩn: trước khi lên giường ngủ, người tín hữu muốn ký thác cuộc đời cho Đức Mẹ, và ước mong rằng khi nhắm mắt lìa đời, họ sẽ được Mẹ trỏ Chúa Giêsu cho mình, nghĩa là được dẫn vào thiên đàng.
Bằng cách nào việc “chào Đức Mẹ” đưa tới việc “chào Mình Thánh Chúa”?
Vào thời Trung cổ, lòng sùng kính của các tín hữu đối với Đức Mẹ được biểu lộ qua việc đến tham gia kinh nguyện với các tu sĩ để hát kinh Salve Regina (Kính Chào Nữ Vương). Đồng thời cũng có một phong trào thích nhìn ngắm Mình Thánh Chúa sau khi linh mục đọc lời truyền phép. Các nhà thờ giật chuông vào lúc linh mục nâng cao Mình Thánh và Máu Thánh. Các tín hữu tuốn đến nhà thờ để thờ lạy Mình Thánh Chúa. Trong bối cảnh ấy mà nhiều thánh thi được sáng tác, bắt đầu bằng các lời chào Ave salus mundi, Ave verum Corpus (Kính chào ơn cứu độ thế gian, Kính chào Thánh Thể sinh bởi lòng Đức Trinh nữ Maria). Tuy nhiên, xét vì không thể nào kéo dài lâu việc dâng cao Mình Thánh Chúa trong Thánh lễ được, cho nên người ta mới tổ chức những buổi cầu nguyện khác, mà mục đích là để ngắm nhìn và thờ lạy Mình Thánh Chúa. Những cuộc chào kính Mình Thánh Chúa được bành trướng cách riêng sau khi thiết lập Lễ kính Mình Thánh Chúa, với nhiều thánh thi và thánh ca do thánh Tôma Aquinô đã soạn, tựa như “Lauda Sion Salvatorem” “Pange lingua gloriosi” “Adoro te”.
Phong trào “chào Đức Mẹ” và phong trào “chào Mình Thánh” xuất hiện có liên hệ gì với nhau không?
Cả hai việc sùng kính xuất hiện hầu như đồng thời, và phát triển song hành. Như đã nói, việc chào Đức Mẹ bắt đầu từ một thánh ca kết thúc các giờ kinh nguyện phụng vụ trong ngày. Thế nhưng, dần dần nhiều nơi, người ta tổ chức hát kinh chào Đức Mẹ vào ban chiều, cắt đứt khỏi các giờ kinh nguyện khác. Một cách tương tự như vậy, việc chào Mình Thánh Chúa bắt nguồn từ việc nhìn ngắm Mình Thánh Chúa vào lúc truyền phép trong Thánh lễ; nhưng dần dần được tách rời khỏi Thánh lễ, thành một hành vi phụng tự riêng. Đến một chặng kế tiếp, từ thế kỷ XVI, thì việc chào Đức Mẹ và chào Mình Thánh được chắp nối với nhau, do sáng kiến của các hội đoàn giáo dân. Có nơi thì cử hành việc chào Đức Mẹ vào các ngày trong tuần, và chào Mình Thánh vào Chúa nhật. Có nơi thì gom lại chung với nhau. Có nơi thì kết nạp cả hai với giờ kinh Chiều. Đó là nguồn gốc tục lệ chầu Mình Thánh Chúa vào các chiều Chúa nhật hoặc các buổi chiều trong tuần (khi mà chưa có Thánh lễ ban chiều). Các buổi chầu Mình Thánh kết thúc với việc ban phép lành với Mình Thánh Chúa, và bài ca kính Đức Mẹ.
Ngày nay tại vài nơi còn tổ chức những cuộc chầu Mình Thánh Chúa suốt ngày, chứ đâu phải chỉ vào chiều Chúa nhật mà thôi. Tục lệ này bắt đầu từ đâu vậy?
Với đà tiến triển của lòng sùng kính đối với bí tích Thánh Thể, việc chầu Mình Thánh Chúa tăng gia về thời gian cũng như về thể thức. Một hình thức còn duy trì đến ngày nay là việc chầu Mình Thánh Chúa được cất giữ tại bàn thờ đặc biệt từ Thánh lễ thứ năm tuần thánh cho đến phụng vụ suy tôn Thánh giá ngày thứ 6 Tuần Thánh. Vào lúc đầu, các bánh thánh được cất giữ trong một nhà tạm vì lý do thực tiễn: trong Thánh lễ thứ năm tuần thánh, người ta phải dự trù thêm số bánh thánh đủ dùng vào việc rước lễ vào ngày hôm sau nữa, bởi vì không có Thánh lễ vào thứ 6 Tuần Thánh. Dần dần, lòng đạo đức bình dân phát triển thành việc “làm Giờ thánh”, nghĩa là tháp tùng Chúa Giêsu vào vườn Cây dầu để cầu nguyện, và thậm chí còn kéo dài sang việc suy gẫm cuộc Tử nạn của Chúa Giêsu cho đến lúc chết trên thập giá. Vì thế việc chầu Mình Thánh Chúa không chỉ giới hạn vào sự thờ lạy Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích này, mà còn kèm theo ý nghĩa chia sẻ cuộc Tử nạn. Như đã nói, tục lệ này vẫn còn được duy trì tại nhiều nơi, từ tối thứ năm cho đến chiều thứ 6 Tuần Thánh, trong khoảng thời gian 24 giờ đồng hồ. Dĩ nhiên là không ai có sức canh thức chầu Mình Thánh trong suốt 24 giờ, vì thế các cộng đoàn giáo xứ hay tu viện chia ra từng tốp, hay nhóm thay phiên nhau để chầu Mình Thánh.
Có nơi còn chầu đến 40 giờ nữa, phải không?
Tục lệ chầu Mình Thánh 40 giờ kéo dài thời gian của thứ năm Tuần thánh. Như vừa nói, thời gian chầu Mình Thánh bắt đầu từ sau Thánh lễ tối thứ năm và kết thúc vào chiều thứ 6. Vào thế kỷ XVI, do sự thúc đẩy của thánh Carôlô Borrômêô, tổng giám mục Milanô bên Italia, một tục lệ khác thành hình, đó là chầu Mình Thánh Chúa 40 giờ. Tại sao 40 giờ? Tại vì người ta muốn đi theo Chúa Giêsu từ khi được an táng trong mồ cho đến lúc Phục sinh. Tuy nhiên việc chầu 40 giờ không gắn liền với Tuần thánh nhưng có thể được tổ chức vào bất cứ lúc nào trong năm.
Thế nào là chầu lượt?
“Chầu lượt” có thể hiểu theo nhiều nghĩa. Có thể hiểu theo nghĩa là phân chia các tốp hoặc nhóm thay phiên (hoặc lần lượt, sỉ lượt) nhau chầu Mình Thánh; điều này cần thiết khi trưng bày Mình Thánh Chúa lâu giờ (hoặc 24 giờ hay 40 giờ). Một nghĩa khác nữa là tổ chức các nhóm, hoặc tu viện hoặc giáo xứ, tuy sống cách xa nhau, nhưng họp thành một dây chuyền để chầu Mình Thánh Chúa. Sáng kiến này đã có từ năm 1592, dưới thời đức thánh cha Clêmentê VIII, với sắc chiếu Graves et diuturnae, tổ chức các buổi chầu Mình Thánh 40 giờ nối dài từ nhà thờ này sang nhà thờ khác. Nên biết là vào thời đó, nhiều Dòng tu cũng du nhập tập tục chầu Mình Thánh liên tục 24 giờ mỗi ngày, và bố trí sao cho ít là có 1 hoặc 2 thành viên luôn luôn chầu Mình Thánh Chúa. Điều này giả thiết là cộng đoàn có khá đông tu sĩ. Trước đây người ta không thấy khó khăn lắm để thực hiện, nhưng ngày nay với số ơn gọi giảm sút, ít Dòng tu dám bảo đảm chầu Mình Thánh liên tục 24 giờ trên 24. Điều này cũng xảy ra cách tương tự cho các giáo xứ. Trước đây các phiên chầu lượt kéo dài 24 giờ (hoặc hơn nữa) trước khi chuyển sang cho giáo xứ khác. Nhưng ngày nay thì nhiều giáo xứ chỉ dám bảo đảm chầu Mình Thánh vào ngày Chúa nhật, lễ trọng, chứ vào những ngày trong tuần thì đóng cửa bởi vì người ta bận công ăn việc làm. Mặt khác, dù khi nhận phiên chầu lượt, mỗi giáo xứ cũng chỉ bảo đảm hơn kém 12 giờ đồng hồ, chứ không trọn ngày. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng nên quên rằng sự chầu Mình Thánh liên tục không chỉ được thực hiện trong khuôn khổ của một cộng đoàn tu sĩ hay một giáo phận, nhưng còn kéo dài ra hoàn cầu, nhờ sự nối mạng với đền thờ Montmartre kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, ở ngoại ô thành phố Paris bên Pháp. Đành rằng động từ “nối mạng” mới ra đời với kỷ nguyên Internet, nhưng từ năm 1885, ý chỉ này đã nảy sinh, đó là thực hiện việc chầu Mình Thánh Chúa thường trực tại đền thờ này, nhưng đồng thời cũng liên kết với các thánh đường trên thế giới đang chầu Mình Thánh Chúa. Vì thế tuy rằng tại địa phương không thể có sự thờ lạy liên tục được, nhưng qua sự kết hiệp với đền thánh Montmartre, mỗi cộng đoàn tín hữu địa phương có thể khẳng định rằng mình đang tham gia vào một phiên, một lượt chầu Mình Thánh Chúa liên lỉ.